Cử nhân Kỹ thuật xét nghiệm Y học - Người làm ra nhiều tiền cho Bệnh viện
Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, hiện nay công tác khám chữa bệnh không chỉ đơn thuần dựa vào các triệu chứng lâm sàng mà các xét nghiệm cận lâm sàng đã phổ biến rộng rãi, ứng dụng nhiều thành tựu mới, hiện đại, cho kết quả sớm, chính xác đóng vai trò quan trọng trong việc phát hiện, chẩn đoán, điều trị và tiên lượng bệnh.
Xét nghiệm Y học - Hiện tại và tương lai | |
Cách đây 50 năm, những nguy cơ mắc phải bệnh tật như viêm gan, đái tháo đường, HIV... hầu hết chưa được phát hiện. Nghiên cứu về bệnh tim mạch, ung thư vốn là nguyên nhân của những cái chết bất ngờ, đau đớn cũng mới chỉ phôi thai. Điều đó làm đau đầu các nhà khoa học và cũng là động lực thúc đẩy nền y học phát triển vượt bậc.
Là ngành khoa học thực nghiệm, y học hiện đại thường chẩn đoán bệnh dựa vào bằng chứng (evidence based medicine). Bên cạnh các phương pháp khám bệnh dựa trên triệu chứng lâm sàng thì những bằng chứng rõ ràng của xét nghiệm đặc hiệu sẽ chứng minh và giúp đưa ra chẩn đoán xác định. Hiện nay đã có rất nhiều loại loại xét nghiệm, thăm dò chẩn đoán trong nhiều lĩnh vực khác nhau: hóa sinh, huyết học, vi sinh, tế bào học… Nhưng dựa trên mục đích sử dụng, xét nghiệm y học thường được chia làm ba nhóm: - Xét nghiệm để chẩn đoán bệnh (diagnostic test): Đây là những xét nghiệm đặc hiệu giúp cho bác sĩ loại bỏ nghi ngờ và đưa ra chẩn đoán xác định, ví dụ: xét nghiệm tìm kí sinh trùng sốt rét trong bệnh sốt rét, xét nghiệm HIV trong bệnh AIDS…. - Xét nghiệm để sàng lọc bệnh (screening test): Là những xét nghiệm để phát hiện bệnh (đặc biệt là bệnh nhân không có triệu chứng), đánh giá dịch tễ học về tần suất mắc bệnh trong một cộng đồng, ví dụ: xét nghiệm đường glucose máu để tầm soát bệnh đái tháo đường, xét nghiệm hormon TSH cho trẻ sơ sinh để tầm soát bệnh suy giáp bẩm sinh… - Xét nghiệm để loại trừ hay phân biệt bệnh (differential test): Những xét nghiệm này giúp bác sĩ phân biệt các căn bệnh có triệu chứng khá giống nhau, ví dụ bệnh nhân có biểu hiện của hội chứng lỵ, có thể là lỵ amib hoặc lỵ trực khuẩn… Xét nghiệm soi tươi phân hoặc chẩn đoán vi khuẩn học có thể phân biệt được trường hợp này. Giá trị của mỗi xét nghiệm y học được đánh giá dựa trên ba khía cạnh: Thứ nhất là giá trị chẩn đoán của nó để loại bỏ những nghi ngờ giúp bác sĩ chẩn đoán xác định, những xét nghiệm chủ đạo trong chẩn đoán bệnh được gọi là chẩn đoán vàng hay tiêu chuẩn vàng, ví dụ nồng độ glucose máu với bệnh đái tháo đường, nồng độ hormone T3 và T4 trong bệnh cường giáp Basedow, virus HBV để chẩn đoán viêm gan B… Thứ hai là độ chính xác của xét nghiệm, tức là mức độ tin cậy của kết quả có được. Về độ tin cậy này người ta đưa ra hai chỉ tiêu là độ nhạy cảm (Sensibility) và độ đặc hiệu (Specificity), một xét nghiệm vừa có độ nhạy lẫn độ đặc hiệu cao là xét nghiệm lý tưởng thầy thuốc nên chọn. Thứ ba là thời gian xét nghiệm, thời gian này rút ngắn thì kết quả chẩn đoán xác định sớm hơn và điều trị hiệu quả hơn. Hiện nay, sự phát triển của các công cụ chẩn đoán (ví dụ như sinh học phân tử) đã tạo ra được những hệ thống thiết bị xét nghiệm có độ nhạy, độ đặc hiệu và độ tin cậy cao, cung cấp ngày càng nhiều thông tin về các lĩnh vực y học (như kiểu gen, kiểu hình,...), cho phép chúng ta phát hiện bệnh sớm hơn (ở giai đoạn chưa có biểu hiện triệu chứng). Các thiết bị xét nghiệm này còn có nhiều ưu điểm khác như: khả năng phân tích mang tính tự động hóa cao, giảm nhân lực và có thể thực hiện một lượng lớn mẫu xét nghiệm trong thời gian ngắn; thân thiện với người sử dụng (không chỉ nhân viên y tế mà cả bệnh nhân cũng có thể sử dụng được); lượng mẫu xét nghiệm cần lấy nhỏ và ít gây đau đớn; kết quả xét nghiệm thu được nhanh hơn (tính bằng phút, thay vì phải tính bằng ngày/ tuần); đặc biệt là công nghệ thông tin giúp giảm tối thiểu những sai số có thể xảy ra trong nhận diện mẫu và tính toán kết quả. Trong tương lai, chẩn đoán bằng kỹ thuật nano - một kỹ thuật mới bắt nguồn từ ngành công nghiệp điện tử đã cho ra đời những thiết bị cảm biến sinh học (biosensors: có chứa một yếu tố sinh học, như enzym có vai trò nhận diện và cho biết về sự xuất hiện một phân tử đặc hiệu) sẽ được sử dụng trong phòng xét nghiệm. Việc đó hứa hẹn đem lại nhiều tiện ích cho nền y học. Những trình bày cụ thể ở trên cho phép khẳng định: xét nghiệm lâm sàng là phần không thể thiếu trong y học hiện nay. Nhờ tính hiệu quả của nó, xét nghiệm có thể đưa đến các lợi ích cho bệnh nhân, cho lâm sàng và kinh tế, chắc chắn sẽ đem lại sự hài lòng cho bệnh nhân. Với vai trò to lớn như đã khẳng định, xét nghiệm lâm sàng xứng đáng nhận được sự quan tâm hơn nữa từ phía những nhà quản lí y tế. Các bệnh viện, trung tâm y tế cần xây dựng, đầu tư và liên tục nâng cấp hệ thống trang thiết bị xét nghiệm chuẩn để phục vụ công tác xét nghiệm lâm sàng hiệu quả hơn, đảm bảo chất lượng xét nghiệm. Song song với nó là việc không ngừng đào tạo, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ kỹ thuật viên xét nghiệm y học có tính chuyên nghiệp, có đạo đức nghề nghiệp đáp ứng kịp với sự phát triển nhanh chóng của chuyên ngành xét nghiệm y học hiện tại và tương lai. |
Đây là một ngành thuộc khối ngành chăm sóc sức khỏe mới được phát triển. Tuy nhiên, đang có rất nhiều tồn tại, bất cập trong ngành cần được các cấp quan tâm hơn để người dân bớt khổ. Trước thực tế người dân nghi ngờ bác sĩ chỉ định xét nghiệm nhiều là để tăng thu nhập cho bệnh viện, Bộ Y tế đã kiểm tra rà soát, yêu cầu các cơ sở y tế, bệnh viện công nhận kết quả xét nghiệm của nhau khi có thể.
Qua một khảo sát, hàng loạt các xét nghiệm ngoại trú của nhiều bệnh viện không được bảo hiểm y tế thanh toán, lãnh đạo 1 bệnh viện lớn thừa nhận điều này. Chẳng hạn, bệnh nhân là trẻ em nhưng nhân viên y tế lại yêu cầu xét nghiệm ung thư tiền liệt tuyến. Nguyên nhân của tình trạng này là do thái độ và sự thiếu chuyên tâm của nhân viên y tế hay là chủ trương tăng nguồn thu cho Bệnh viện????!!!!!!!!.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét